23 C
Vietnam
Thứ tư, Tháng mười 9, 2024

Tổng quan thị trường trong nước 31/5: Ngành thép giảm

Không nên bỏ qua

Ngày 31/5, giá thép trong nước ghi nhận tiếp tục giảm trong phiên thứ 8 liên tiếp, đạt mức thấp dưới 15 triệu đồng/tấn.

Trong ngày 30/5, nhiều doanh nghiệp thép trong nước đã giảm giá thêm từ 200.000 đến 300.000 đồng/tấn, đặc biệt là ở dòng thép thanh vằn D10 CB300. Hiện tại, giá thép xây dựng nội địa đã thấp hơn khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá thép tiếp tục giảm trong phiên thứ 8

Cụ thể, Hòa Phát đã giảm giá thép thanh vằn D10 CB300 thêm 200.000 đồng/tấn, đưa giá xuống còn 14,89 triệu đồng/tấn tại miền Bắc, 14,75 triệu đồng/tấn tại miền Trung và 14,72 triệu đồng/tấn tại miền Nam. Trong khi đó, giá thép cuộn CB240 giữ nguyên ở mức 14,7 triệu đồng/tấn.

Giá thép tiếp tục giảm trong phiên thứ 8
Giá thép liên tục giảm chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ kém

Thương hiệu thép Việt Ý đã điều chỉnh giảm 210.000 đồng/tấn đối với thép vằn thanh D10 CB300, hiện có giá là 14,59 triệu đồng/tấn, trong khi thép cuộn CB240 không thay đổi, vẫn ở mức 14,42 triệu đồng/tấn.

Đối với thép Việt Đức, giá thép thanh vằn D10 CB300 giảm 230.000 đồng/tấn, còn 14,77 triệu đồng/tấn, trong khi thép cuộn CB240 giữ nguyên ở mức 14,44 triệu đồng/tấn.

Pomina là thương hiệu thực hiện mức giảm giá lớn nhất trong đợt điều chỉnh lần này, với giảm 300.000 đồng/tấn đối với thép thanh vằn D10 CB300, đưa giá xuống còn 15,2 triệu đồng/tấn. Giá thép cuộn CB240 vẫn giữ nguyên ở mức 14,99 triệu đồng/tấn.

Theo Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (MXV), giá thép liên tục giảm chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ kém, cùng với xu hướng giảm của giá thép toàn cầu. Hiện tại, giá thép cây trên Sở Giao dịch Thượng Hải đã giảm khoảng 26% so với đỉnh cao trong năm 2023 vào tháng 3 và thấp hơn gần 28% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên liệu đầu vào sản xuất thép cũng giảm giá, trong khi nguồn cung thép dồi dào và hàng tồn kho lớn.

Tại thị trường nội địa, nhu cầu thép cho các công trình xây dựng thấp, dẫn đến việc tiêu thụ thép giảm. Trong tháng 4/2023, lượng thép xây dựng bán ra giảm hai chữ số, đạt mức thấp thứ hai kể từ năm 2022. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, sản xuất thép thành phẩm đạt hơn 8,8 triệu tấn, giảm 22,4% so với cùng kỳ năm 2022; tiêu thụ thép thành phẩm đạt 8,1 triệu tấn, giảm 23,1% so với cùng kỳ năm 2022.

Nhu cầu thép xuất khẩu của Việt Nam cũng không khả quan tại các thị trường lớn như EU và Mỹ, do lãi suất cao. Trong 4 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu sắt thép giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2022.

MXV dự đoán rằng trong nửa cuối năm 2023, ngành thép sẽ vẫn gặp khó khăn trong tiêu thụ. Ngành thép có thể cần thêm thời gian để hồi phục, đặc biệt khi thị trường bất động sản dân dụng chưa có nhiều biến chuyển. Vì vậy, giá thép dự kiến sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.

Giá heo hơi ngày 31/5: Biến động nhẹ trong phạm vi hẹp

Ngày 31/5, giá heo hơi ghi nhận những biến động nhẹ, dao động trong khoảng 1.000 đồng/kg, với sự ổn định tại miền Bắc, cùng sự tăng giảm trái chiều tại miền Trung – Tây Nguyên và miền Nam.

Giá heo hơi ngày 31/5: Biến động nhẹ trong phạm vi hẹp
Tại miền Nam, giá heo hơi có sự điều chỉnh nhỏ

Tại miền Bắc, giá heo hơi không có sự thay đổi đáng kể và giữ mức ổn định từ 58.000 đến 59.000 đồng/kg. Mức giá cao nhất 59.000 đồng/kg xuất hiện tại các tỉnh Bắc Giang, Hưng Yên, Thái Nguyên, Thái Bình, Vĩnh Phúc và Hà Nội. Trong khi đó, giá heo hơi tại các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Nam Định, Phú Thọ, Hà Nam, Ninh Bình, Tuyên Quang giữ ổn định ở mức 58.000 đồng/kg.

Ở miền Trung – Tây Nguyên, giá heo hơi giảm nhẹ trong khoảng từ 54.000 đến 60.000 đồng/kg. Tỉnh Quảng Trị giảm 1.000 đồng/kg xuống còn 54.000 đồng/kg, mức thấp nhất trong khu vực. Các địa phương khác giữ mức giá tương đối ổn định, với giá cao nhất ghi nhận tại Lâm Đồng ở mức 60.000 đồng/kg và các tỉnh khác dao động quanh mức 58.000 – 59.000 đồng/kg.

Tại miền Nam, giá heo hơi có sự điều chỉnh nhỏ, dao động từ 57.000 đến 60.000 đồng/kg. Thương lái tại Đồng Tháp, Cần Thơ, và Tiền Giang giảm giá còn 57.000 đồng/kg, mức thấp nhất trong khu vực. Tại Bến Tre, giá heo hơi giảm 1.000 đồng/kg còn 59.000 đồng/kg, trong khi Sóc Trăng tăng 1.000 đồng/kg cũng đạt mức 59.000 đồng/kg.

Các địa phương khác ở miền Nam không có biến động lớn, với mức giá cao nhất 60.000 đồng/kg xuất hiện tại Đồng Nai, Vũng Tàu, Vĩnh Long, Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, và Trà Vinh. Các tỉnh còn lại duy trì giá heo hơi quanh mức 58.000 – 59.000 đồng/kg.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong tháng 5/2023, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt khoảng 4,85 tỷ USD, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính tổng hợp trong 5 tháng đầu năm 2023, tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 36,96 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt 20,26 tỷ USD, giảm 11,1% so với năm ngoái; và giá trị xuất siêu nông lâm thủy sản trong 5 tháng là 3,55 tỷ USD, giảm 21,1%.

Về phân phối theo thị trường xuất khẩu, trong 5 tháng qua, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản đến các nước châu Á tăng 2,3%. Tuy nhiên, thị trường châu Mỹ đạt 4,42 tỷ USD, giảm 34,6%; châu Âu đạt 2,42 tỷ USD, giảm 13,2%; châu Phi đạt 327 triệu USD, giảm 5,6%; và châu Đại Dương đạt 280 triệu USD, giảm 28%. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn là ba thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam.

Giá cà phê hôm nay, 31/5: Giữ mức ổn định cao

Giá cà phê trong nước vào ngày 31/5 duy trì trong khoảng từ 60.500 đến 61.100 đồng/kg, không có sự thay đổi so với hôm qua. Mức giá này vẫn ở mức cao nhất trong nhiều năm qua.

Giá cà phê hôm nay, 31/5: Giữ mức ổn định cao
Lâm Đồng, cà phê được thu mua với giá từ 60.400 đến 60.500 đồng/kg

Tại các tỉnh Tây Nguyên, giá cà phê giữ ổn định. Cụ thể, ở Lâm Đồng, cà phê được thu mua với giá từ 60.400 đến 60.500 đồng/kg tại các huyện như Bảo Lộc, Di Linh và Lâm Hà. Ở Gia Lai và Kon Tum, giá cà phê đứng ở mức 60.800 đồng/kg, trong khi Đắk Nông ghi nhận mức cao nhất là 61.100 đồng/kg. Tại Đắk Lắk, giá cà phê ở huyện Cư M’gar là 61.000 đồng/kg và ở huyện Ea H’leo, thị xã Buôn Hồ là 61.100 đồng/kg.

So với các tuần trước, giá cà phê trong nước đã tăng mạnh hơn 6.000 đồng/kg.

Trên thị trường thế giới, giá cà phê cũng có sự giảm nhẹ. Trên sàn London, giá cà phê Robusta kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 14 USD, còn 2.560 USD/tấn, trong khi kỳ hạn giao tháng 9 giảm 9 USD, xuống 2.519 USD/tấn. Trên sàn New York, giá cà phê Arabica kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 4,50 cent, còn 177,10 cent/lb, và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 4,70 cent, còn 174,85 cent/lb.

Theo dữ liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, xuất khẩu cà phê trong 5 tháng đầu năm 2023 giảm 2,2% so với năm trước, đạt 882.000 tấn. Trong tháng 5, xuất khẩu cà phê ước đạt 165.000 tấn, trị giá 418 triệu USD.

Dự báo sản lượng cà phê niên vụ 2022-2023 sẽ giảm khoảng 10-15% so với niên vụ 2021-2022, xuống khoảng 1,47 triệu tấn, theo Hiệp hội Cà phê – Cacao Việt Nam (VICOFA).

Mặc dù có sự giảm trong sản lượng, nhu cầu cà phê Robusta vẫn cao do ngành công nghiệp cà phê hòa tan vẫn cần loại cà phê này. Tình trạng khan hiếm cà phê Robusta đã duy trì mức giá cao trên thị trường toàn cầu. Theo tổ chức Cà phê Quốc tế, các lô hàng cà phê Robusta từ tháng 10/2022 đến tháng 3/2023 đã tăng 4% so với cùng kỳ năm trước.

Chuyên gia dự đoán rằng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao, nhờ vào giá giao dịch và nội địa ở mức kỷ lục, hướng tới mục tiêu kim ngạch năm 2023 đạt 4 tỷ USD.

Có thể bạn quan tâm

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Bài viết mới nhất